Saturday, February 8, 2014

Chuanhatthu5ThuongNien



Chia sẻ Tin Mừng (Năm A)
Chúa nhật thứ 5 Thường Niên
(09/02/2014)
Tin Mừng: Mt 5,13-16
Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian

Câu hỏi gợi ý:
1. Muối dùng để làm gì? Trở nên muối cho đời nghĩa là gì?
2. Nói cụ thể, ta có thể trở nên muối cho đời bằng cách nào?
3. Người ta có thể theo tôn giáo của ta đang khi ta chẳng tốt hơn họ, chẳng hạnh phúc hơn họ không? Tôn giáo của ta có thật sự hấp dẫn họ không?

CHIA SẺ
1.   Công dụng của muối và nhiệm vụ của người Kitô hữu
Muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư thối, đồng thời thêm vị ngon cho nó. Ðức Giêsu đã dùng hình ảnh này để nói lên sứ mạng của người Kitô hữu đối với môi trường mình đang sống.
Nếu muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư và thêm vị ngon cho nó, thì Thiên Chúa muốn dùng người Kitô hữu là chúng ta để giữ cho thế giới, xã hội không bị hư hỏng bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta.
2.   Trở nên muối cho đời bằng cách nào?
Làm sao chúng ta có thể giữ cho thế giới đừng hư hỏng mà trở nên tốt đẹp hơn? Ðức Giêsu đề nghị với chúng ta một phương cách cũng lại bằng một ẩn dụ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Mọi người ai cũng cần ánh sáng để nhìn thấy, để biết lối đi hầu khỏi té ngã, để biết đường mà làm công nọ việc kia. Về mặt tâm linh, người ta cũng cần có những gương sáng để họ theo đó mà hành xử cho đúng, cho khôn ngoan, cho tốt đẹp trong mọi trường hợp. Nhưng gương sáng đó họ tìm nơi đâu? Khi nói: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian, Ðức Giêsu đã giao phó cho chúng ta nhiệm vụ làm gương sáng cho mọi người chung quanh, trong môi trường mình sống. Khi làm gương sáng như thế, chúng ta đã trở nên muối cho đời.
3.   Chúng ta có làm gương sáng trong môi trường mình không?
Tình hình xã hội hiện nay có nhiều điều đáng bi quan: bất công, bạo lực và nhiều thứ tệ nạn xã hội đang lan tràn, mạng sống con người bị coi thường (nhất là của thai nhi), tình dục bị lạm dụng, bảng giá trị Kitô giáo bị đảo lộn (nhiều người, kể cả Kitô hữu, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn tình nghĩa.), v.v. Nói chung, thế giới đang bị hư hỏng từ gia đình đến ngoài xã hội. Vì thế, bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần ý thức lại nhiệm vụ làm muối cho đời, làm ánh sáng cho trần gian mà Ðức Giêsu đã giao cho chúng ta. Nhưng thử hỏi, người Kitô hữu - cụ thể là chính chúng ta đã ý thức và cố gắng thực hiện nhiệm vụ ấy trong cuộc đời mình chưa?
Thực tế đang trả lời cho chúng ta. Giáo Hội lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, bỏ ra biết bao nhiêu nhân lực và tài lực vào công việc này. Nhưng. hiện nay, dân số Kitô giáo trên thế giới tuy có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Kitô hữu đang càng ngày càng giảm khoảng từ 50 năm nay. Tại châu Âu, nơi trước đây số Kitô hữu đã lên tới 70%, thì nay tỷ lệ người Kitô hữu thực hành đạo thật sự (pratiquants, church-goers) chỉ còn chưa tới 5%. Tại châu Á, tỷ lệ người Kitô hữu hiện nay - theo thống kê của Tòa Thánh tính đến cuối năm 1998 - chỉ được 2,7%. Số Kitô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Kitô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Kitô giáo chủ yếu là do kết hôn với người Kitô hữu. Số người giác ngộ Kitô giáo để tự nguyện trở nên Kitô hữu thì rất ít.  
Ðiều ấy đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân: chúng ta đã sống đạo thế nào? Thiết tưởng mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Kitô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ không thật sự áp dụng tinh thần Ðức Kitô vào trong đời sống của mình.
4.   Phải chăng cách sống của ta là một phản chứng?
Mahatma Gandhi có vẻ như thách thức người Kitô hữu: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Ðức Kitô thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông – cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Ðức Kitô, nhưng ông không thể trở nên Kitô hữu vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông mà được Thượng Ðế thưởng công đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì vị Thượng Ðế như thế không thể chấp nhận được!
Biết bao người như Gandhi rất mộ mến Ðức Giêsu, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Kitô hữu chung quanh họ là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Kitô giáo làm gì. Vì người Kitô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu. Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Kitô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?
5.   Truyền giáo bằng chính đời sống phù hợp với Tin Mừng
Nếu đời sống của ta ngược lại với Tin Mừng, làm sao ta có thể làm muối cho đời để đời khỏi hư hỏng được? làm sao ta có thể làm cho đời tốt đẹp lên được? Muối như thế là muối đã lạt. Muối có giá trị hay không là ở vị mặn của nó. Nếu muối lạt thì còn làm được việc gì? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi!
Ta thử tự xét xem chất muối của mình có còn mặn không? có còn tác dụng ướp nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của ta trong gia đình, trong xứ đạo, trong xã hội, nơi ta làm việc có phải là ánh sáng dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông Kitô hữu có trật tự và phát triển - nhất là về mặt đạo đức - cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho toàn vùng chung quanh không? có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không?
Theo quan niệm của Gandhi, để toàn dân Ấn Ðộ trở thành Kitô hữu, không cần phải đổ công đổ của ra mà truyền giáo cho bằng chỉ cần người Kitô hữu sống đích thực tinh thần của Ðức Giêsu là đủ. Sống như thế chính là trở nên ánh sáng cho trần gian.
Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác!

Saturday, February 1, 2014

Chuanhatthu4ThuongNien

Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ 4 Thường Niên
Lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
 (02/02/2014)
Tin Mừng: Lc 2,22-32
Tiến dâng Ðức Giêsu cho Thiên Chúa

Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Ðức Giêsu tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?

CHIA SẺ
 1. Ðức Maria và Thánh Giuse tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Ðức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Môsê liên quan đến việc hạ sinh Ðức Giêsu. Luật Môsê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh13,2.12-13; Ds 18,15-16). Mặc dù biết Ðức Giêsu, con của mình, là Con Thiên Chúa, Ðức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Ðó là một gương mẫu cho chúng ta.
2. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Ðức Giêsu chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Ðức Giêsu đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: “Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!” (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũngnói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: “Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ” (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3. Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Kitô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10,27); “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phaolô và Giacôbê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật... Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Ðức Kitô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8). Chính Ðức Giêsu cũng tuyên bố rất rõ ràng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp).
Kitô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát mến Chúa, yêu người nói trên. Mọi Kitô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4. Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Ðó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc và cũng không nên tuân theo.
Chính Ðức Giêsu đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi.
Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Kitô giáo là mến Chúa, yêu người, mà tóm gọn hơn nữa là yêu người, hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Ðức Giêsu thì: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23b).
5. Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Ðiều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Ðức Giêsu lại đánh giá rằng “không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật”! (Ga 7,19), Tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng “họ lại bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng chỉ là “giới luật của phàm nhân” (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành sôi hỏng bỏng không, hay như công dã tràng!

Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái xác của lề luật, là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái hồn của lề luật, tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ quân bị nguyền rủa (Mt 25,41), chỉ vì “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống”, v.v. (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ, chỉ toàn lo giữ luật của phàm nhân!