Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ 3 Thường Niên
Chúa nhật thứ 3 Thường Niên
(26/01/2014)
Tin Mừng: Mt 4,12-17
Đức Giêsu khởi đầu rao giảng tại Galilê
Chúa luôn chúc phúc
và nâng cao những ai khiêm nhường sám hối
và nâng cao những ai khiêm nhường sám hối
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao
Thiên Chúa lại muốn Đức Giêsu xuất thân tại xứ Galilê, là «miền đất của dân
ngoại» (Mt 4,15), chứ không xuất thân ở xứ Giuđa là miền đông dân theo đạo Do
Thái?
2. Tại sao
tôn giáo của Tân ước mà Đức Giêsu thiết lập lại chủ yếu do dân ngoại gia nhập,
còn người Do Thái giáo lại gia nhập rất ít? Liệu người Kitô hữu hiện nay có đi
vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái giáo xưa không?
3. Người đang được Thiên Chúa ưu đãi, nâng đỡ, cần có
thái độ nào để Thiên Chúa vẫn tiếp tục ưu đãi và nâng đỡ?
CHIA SẺ
1. Xứ
Galilê được chọn làm nơi xuất thân Đấng Cứu Thế
Nước Do
Thái có ba miền: Galilê (miền bắc), Samari (miền trung) và Giuđa (miền nam).
Thủ đô tôn giáo của Do Thái giáo là Giêrusalem thuộc xứ Giuđa, xứ này là vùng
đông người có đạo Do Thái nhất. Xứ Samari là miền tạp chủng, tuy theo đạo Do
Thái, nhưng đạo này bị pha trộn với tôn giáo của dân ngoại, nghĩa là mang tính
lạc giáo, nên bị người Giuđa khinh thường và coi như dân ngoại. Còn xứ Galilê
là miền đất của dân ngoại – vì đa số dân chúng là ngoại đạo – như được nói
trong bài Tin Mừng: «Hỡi Galilê, miền đất
của dân ngoại» (Mt 4,15). Galilê «thuộc
địa hạt Dơvulun và Náptali», là vùng đất bị Thiên Chúa nguyền rủa vì trong
quá khứ, dân đã phạm một lầm lỗi nặng nề nào đó (x. Is 8,23b). Thế mà Đức
Giêsu lại là người Nadarét thuộc xứ Galilê, Ngài sinh trưởng và xuất thân từ
đó. Các tông đồ mà Ngài tuyển chọn, tất cả đều là người dân Galilê.
Đến đây,
ta phải tự hỏi: tại sao Thiên Chúa không để Đức Giêsu và các tông đồ của Ngài
xuất thân ở vùng đất Giuđa là vùng của đạo Do Thái, mà lại xuất thân từ vùng Galilê
là vùng của dân ngoại?
Quả thật,
việc làm của Thiên Chúa không mấy ai hiểu được: «Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người
sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Gio-đan, vùng đất của
dân ngoại (Is 8,23b). Đúng là «Người
nâng ai lên hay hạ ai xuống đều tuỳ ý Ngài» (Đn 5,19; x. Tv 147,6; Hc
33,12; Ed 17,24; Ed 21,31). Đương nhiên không phải Ngài nâng cao hay hạ thấp
một cách tùy tiện theo ý ngông của Ngài, mà theo tiêu chuẩn này: «Chúa hạ bệ những ai quyền thế, kiêu căng;
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,52). Do biết khiêm nhường sám
hối, vùng Caphácnaum (thuộc miền Galilê) đang được Thiên Chúa chúc phúc và
nâng lên. Nhưng khi được nâng lên, dân này lại sinh ra kiêu căng và tự hào, nên
Đức Giêsu mới cảnh báo: «Còn ngươi nữa,
hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ
phải nhào xuống tận âm phủ!» (Lc 10,15).
Cũng vậy,
dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài, đó là điều thật
hạnh phúc cho họ. Nhưng thay vì sống theo giới luật hay tinh thần của Ngài để
xứng đáng với ân huệ đặc biệt đó, họ lại lên mặt và khinh chê dân ngoại. Vì
thế, khi Đấng Cứu Thế đến, Thiên Chúa đã không để cho vùng Giuđa – vùng đông
người có đạo nhất – được vinh dự là nơi xuất thân của Đấng Cứu Thế. Mang danh
là tuyển dân của Thiên Chúa, tuy vẫn giữ đúng những tập tục tôn giáo Ngài
truyền lại qua Môsê, nhưng họ chỉ thực hiện một cách hoàn toàn hình thức, thiếu
tình yêu và lòng thành bên trong, họ đã trở nên nguội lạnh và gian ác. Bằng
chứng là khi Đấng Cứu Thế đến, họ đã bách hại Ngài ngay khi Ngài sinh ra, và
còn tiếp tục bách hại và giết chết Ngài khi Ngài xuất hiện ở tuổi trưởng thành.
Vì thế, Thiên Chúa đã hạ bệ họ: «Kẻ thấp
hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen» (Tv 147,6).
Thật vậy, đến năm 70, Thiên Chúa đã khiến cho Giêrusalem, kinh đô của Do Thái
giáo, trở thành «không còn hòn đá nào
trên hòn đá nào, vì đã không nhận biết thời giờ họ được Thiên Chúa viếng thăm»
(Lc 19,44). Và dân Do Thái đã mất nước từ đó –suốt 19 thế kỷ – cho đến khi lập
quốc trở lại vào năm 1947. Lập quốc trở lại mà vẫn phải chịu đựng chiến tranh
liên miên. Về mặt tôn giáo, Thiên Chúa đã lập nên mộtGiáo Hội mới mà chủ yếu là
do dân ngoại gia nhập vào, còn người Do Thái thì chiếm tỷ lệ vô cùng nhỏ bé so
với dân số của họ thời ấy. Sự việc đã xảy ra đúng như tinhthần dụ ngôn người
thợ vườn nho sát nhân (Mt 21,33-46) và dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14) của Đức
Giêsu.
2. Bài
học cho mỗi người chúng ta
Những sự
kiện nêu trên đáng cho chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học. Rất có thể chúng ta
đang được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, được ưu đãi hơn rất nhiều người
khác. Nhưng thay vì ta biết ơn Ngài và sống cho xứng đáng với ơn ấy, thì chúng
ta lại lên mặt kiêu căng với những người kém may mắn hơn, đồng thời sống giả
hình (có bề ngoài mà không có thực chất bên trong), gian ác, không đúng với
tinh thần quên mình, từ bỏ mình, hoặc vác thập giá mình hằng
ngày mà theo Chúa.Chúng ta tưởng rằng quên mình hay từ bỏ
mình thì sẽ bị thiệt hại, bị vong thân, và tưởng rằng vác thập giá
mình thì sẽ bị đau khổ. Nên chúng ta tìm cách đề cao mình, thổi phồng «cái
tôi» cá nhân hoặc tập thể của mình lên. Nhưng thật ra đó mới chính là cách hủy
hoại mình hữu hiệu nhất. Và tìm cách đạt cho bằng được những địa vị, quyền
bính, tiền bạc, để hưởng những vinh quang, lạc thú, thoải mái do chúng mang
lại. Nhưng thật ra đó là tự chuốc đau khổ cho mình cách tệ hại nhất. Chúng ta
quên rằng «Chúa giơ tay biểu dương sức
mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người
nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,51-52).
3. Bài
học cho các tập thể
Thiên Chúa
đối xử với những cá nhân kiêu căng thế nào, thì Ngài cũng đối xử với những tập
thể ngạo mạn như vậy. Lịch sử của dân Do Thái là một bài học đích đáng về chân
lý ấy. Vì thế, nhiều khi chúng ta phải tự xét: liệu Giáo Hội – dân được Thiên
Chúa tuyển chọn trong Tân ước – có đi vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái – dân
được Ngài tuyển chọn trong Cựu ước – không? Giáo Hội có quá tự hào vì được
Thiên Chúa ưu đãi và tuyển chọn cách đặc biệt không? có coi thường các tôn giáo
khác không? có sống xứng đáng với hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mình
không? Người Kitô hữu ngày nay – giáo dân cũng như giáo sĩ – có rập khuôn theo
tinh thần cũ của dân Do Thái xưa không?
Nếu dân Do
Thái xưa mà suy gẫm lời cảnh báo của Đức Giêsu xưa: «Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham”. Vì
tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con
cháu ông Ápraham» (Mt 3,9), và sống phù hợp vn tinh thần của Ngài, thì có
lẽ họ đã không đến nỗi như hiện nay. Thánh Phaolô từng cảnh báo về lòng tự hào
của họ: «Bạn mang tên là người Do-thái, ỷ
rằng mình có Lề Luật, tự hào vì có Thiên Chúa; được biết ý Người, được Lề Luật
dạy cho điều hay lẽ phải; (…) bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức
và chân lý» (Rm 2,17-20). Tự hào như thế thì cũng chính đáng, nhưng nếu vì
sự tự hào ấy mà lên mặt với người khác là điều không hay, nhất là khi không
sống cho xứng với niềm tự hào ấy: «Bạn
dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! (…) Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà
bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,21-23).
Người Kitô hữu sẽ làm nhục Đức Kitô khi họ tự hào về Ngài nhưng lại sống giới
răn mới của Ngài (x. Ga 13,34) không bằng người ngoại.
4. Hãy
sám hối
Đức Giêsu
xuất thân và khởi đầu việc rao giảng của Ngài tại Galilê, là «miền đất của dân
ngoại». Để giúp cho Galilê được «đầy dẫy vinh quang» hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ
Isaia (x. Is 9,1; 8,23b), Đức Giêsu khuyên dân chúng tại đó: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần».
Cho dù tội lỗi, bị Thiên Chúa nguyền rủa, nhưng nếu biết sám hối, biết sửa đổi
lại cách sống theo đường lối của Ngài, thì sẽ được Ngài nâng lên, chúc phúc. Dụ
ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14)
chứng minh điều đó. Trái lại, khi được Ngài nâng lên mà lại trở nên kiêu căng
tự hào thì sẽ lại bị Ngài hạ xuống, như Đức Giêsu đã cảnh báo dân Caphácnaum
(x. Lc 10,15). Vậy, sám hối – tức khiêm nhường nhận ra sự sai trái của mình và
quyết tâm sửa đổi cho đúng – là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa chúc
phúc và nâng lên. Trong tinh thần sám hối ấy, thiết tưởng người Kitô hữu chúng
ta – dù là cá nhân hay tập thể – cần tránh tự hào và kiêu hãnh trước người khác
về những nhân đức mình có, những việc tốt đẹp mình làm được, những hồng ân đặc
biệt Thiên Chúa ban cho mình một cách ưu đãi. Đồng thời cần cố gắng sống cho
xứng đáng với những ân huệ đặc biệt ấy với tâm tình biết ơn.