Saturday, February 8, 2014

Chuanhatthu5ThuongNien



Chia sẻ Tin Mừng (Năm A)
Chúa nhật thứ 5 Thường Niên
(09/02/2014)
Tin Mừng: Mt 5,13-16
Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian

Câu hỏi gợi ý:
1. Muối dùng để làm gì? Trở nên muối cho đời nghĩa là gì?
2. Nói cụ thể, ta có thể trở nên muối cho đời bằng cách nào?
3. Người ta có thể theo tôn giáo của ta đang khi ta chẳng tốt hơn họ, chẳng hạnh phúc hơn họ không? Tôn giáo của ta có thật sự hấp dẫn họ không?

CHIA SẺ
1.   Công dụng của muối và nhiệm vụ của người Kitô hữu
Muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư thối, đồng thời thêm vị ngon cho nó. Ðức Giêsu đã dùng hình ảnh này để nói lên sứ mạng của người Kitô hữu đối với môi trường mình đang sống.
Nếu muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư và thêm vị ngon cho nó, thì Thiên Chúa muốn dùng người Kitô hữu là chúng ta để giữ cho thế giới, xã hội không bị hư hỏng bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta.
2.   Trở nên muối cho đời bằng cách nào?
Làm sao chúng ta có thể giữ cho thế giới đừng hư hỏng mà trở nên tốt đẹp hơn? Ðức Giêsu đề nghị với chúng ta một phương cách cũng lại bằng một ẩn dụ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Mọi người ai cũng cần ánh sáng để nhìn thấy, để biết lối đi hầu khỏi té ngã, để biết đường mà làm công nọ việc kia. Về mặt tâm linh, người ta cũng cần có những gương sáng để họ theo đó mà hành xử cho đúng, cho khôn ngoan, cho tốt đẹp trong mọi trường hợp. Nhưng gương sáng đó họ tìm nơi đâu? Khi nói: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian, Ðức Giêsu đã giao phó cho chúng ta nhiệm vụ làm gương sáng cho mọi người chung quanh, trong môi trường mình sống. Khi làm gương sáng như thế, chúng ta đã trở nên muối cho đời.
3.   Chúng ta có làm gương sáng trong môi trường mình không?
Tình hình xã hội hiện nay có nhiều điều đáng bi quan: bất công, bạo lực và nhiều thứ tệ nạn xã hội đang lan tràn, mạng sống con người bị coi thường (nhất là của thai nhi), tình dục bị lạm dụng, bảng giá trị Kitô giáo bị đảo lộn (nhiều người, kể cả Kitô hữu, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn tình nghĩa.), v.v. Nói chung, thế giới đang bị hư hỏng từ gia đình đến ngoài xã hội. Vì thế, bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần ý thức lại nhiệm vụ làm muối cho đời, làm ánh sáng cho trần gian mà Ðức Giêsu đã giao cho chúng ta. Nhưng thử hỏi, người Kitô hữu - cụ thể là chính chúng ta đã ý thức và cố gắng thực hiện nhiệm vụ ấy trong cuộc đời mình chưa?
Thực tế đang trả lời cho chúng ta. Giáo Hội lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, bỏ ra biết bao nhiêu nhân lực và tài lực vào công việc này. Nhưng. hiện nay, dân số Kitô giáo trên thế giới tuy có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Kitô hữu đang càng ngày càng giảm khoảng từ 50 năm nay. Tại châu Âu, nơi trước đây số Kitô hữu đã lên tới 70%, thì nay tỷ lệ người Kitô hữu thực hành đạo thật sự (pratiquants, church-goers) chỉ còn chưa tới 5%. Tại châu Á, tỷ lệ người Kitô hữu hiện nay - theo thống kê của Tòa Thánh tính đến cuối năm 1998 - chỉ được 2,7%. Số Kitô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Kitô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Kitô giáo chủ yếu là do kết hôn với người Kitô hữu. Số người giác ngộ Kitô giáo để tự nguyện trở nên Kitô hữu thì rất ít.  
Ðiều ấy đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân: chúng ta đã sống đạo thế nào? Thiết tưởng mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Kitô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ không thật sự áp dụng tinh thần Ðức Kitô vào trong đời sống của mình.
4.   Phải chăng cách sống của ta là một phản chứng?
Mahatma Gandhi có vẻ như thách thức người Kitô hữu: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Ðức Kitô thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông – cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Ðức Kitô, nhưng ông không thể trở nên Kitô hữu vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông mà được Thượng Ðế thưởng công đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì vị Thượng Ðế như thế không thể chấp nhận được!
Biết bao người như Gandhi rất mộ mến Ðức Giêsu, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Kitô hữu chung quanh họ là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Kitô giáo làm gì. Vì người Kitô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu. Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Kitô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?
5.   Truyền giáo bằng chính đời sống phù hợp với Tin Mừng
Nếu đời sống của ta ngược lại với Tin Mừng, làm sao ta có thể làm muối cho đời để đời khỏi hư hỏng được? làm sao ta có thể làm cho đời tốt đẹp lên được? Muối như thế là muối đã lạt. Muối có giá trị hay không là ở vị mặn của nó. Nếu muối lạt thì còn làm được việc gì? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi!
Ta thử tự xét xem chất muối của mình có còn mặn không? có còn tác dụng ướp nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của ta trong gia đình, trong xứ đạo, trong xã hội, nơi ta làm việc có phải là ánh sáng dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông Kitô hữu có trật tự và phát triển - nhất là về mặt đạo đức - cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho toàn vùng chung quanh không? có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không?
Theo quan niệm của Gandhi, để toàn dân Ấn Ðộ trở thành Kitô hữu, không cần phải đổ công đổ của ra mà truyền giáo cho bằng chỉ cần người Kitô hữu sống đích thực tinh thần của Ðức Giêsu là đủ. Sống như thế chính là trở nên ánh sáng cho trần gian.
Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác!

Saturday, February 1, 2014

Chuanhatthu4ThuongNien

Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ 4 Thường Niên
Lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
 (02/02/2014)
Tin Mừng: Lc 2,22-32
Tiến dâng Ðức Giêsu cho Thiên Chúa

Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Ðức Giêsu tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?

CHIA SẺ
 1. Ðức Maria và Thánh Giuse tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Ðức Maria và thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Môsê liên quan đến việc hạ sinh Ðức Giêsu. Luật Môsê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh13,2.12-13; Ds 18,15-16). Mặc dù biết Ðức Giêsu, con của mình, là Con Thiên Chúa, Ðức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Ðó là một gương mẫu cho chúng ta.
2. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Ðức Giêsu chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Ðức Giêsu đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: “Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!” (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũngnói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: “Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ” (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3. Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Kitô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” (Lc 10,27); “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phaolô và Giacôbê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật... Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Ðức Kitô” (Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8). Chính Ðức Giêsu cũng tuyên bố rất rõ ràng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp).
Kitô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát mến Chúa, yêu người nói trên. Mọi Kitô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4. Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Ðó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc và cũng không nên tuân theo.
Chính Ðức Giêsu đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi.
Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Kitô giáo là mến Chúa, yêu người, mà tóm gọn hơn nữa là yêu người, hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Ðức Giêsu thì: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23b).
5. Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Ðiều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Ðức Giêsu lại đánh giá rằng “không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật”! (Ga 7,19), Tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng “họ lại bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng chỉ là “giới luật của phàm nhân” (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành sôi hỏng bỏng không, hay như công dã tràng!

Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái xác của lề luật, là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái hồn của lề luật, tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ quân bị nguyền rủa (Mt 25,41), chỉ vì “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống”, v.v. (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ, chỉ toàn lo giữ luật của phàm nhân!

Friday, January 24, 2014

Chuanhatthu3ThuongNien



Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ 3 Thường Niên
 (26/01/2014)
Tin Mừng: Mt 4,12-17
Đức Giêsu khởi đầu rao giảng tại Galilê

Chúa luôn chúc phúc
và nâng cao những ai khiêm nhường sám hối

Câu hỏi gợi ý:
1.   Tại sao Thiên Chúa lại muốn Đức Giêsu xuất thân tại xứ Galilê, là «miền đất của dân ngoại» (Mt 4,15), chứ không xuất thân ở xứ Giuđa là miền đông dân theo đạo Do Thái?
2.   Tại sao tôn giáo của Tân ước mà Đức Giêsu thiết lập lại chủ yếu do dân ngoại gia nhập, còn người Do Thái giáo lại gia nhập rất ít? Liệu người Kitô hữu hiện nay có đi vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái giáo xưa không?
3.   Người đang được Thiên Chúa ưu đãi, nâng đỡ, cần có thái độ nào để Thiên Chúa vẫn tiếp tục ưu đãi và nâng đỡ?

CHIA SẺ
1.   Xứ Galilê được chọn làm nơi xuất thân Đấng Cứu Thế
Nước Do Thái có ba miền: Galilê (miền bắc), Samari (miền trung) và Giuđa (miền nam). Thủ đô tôn giáo của Do Thái giáo là Giêrusalem thuộc xứ Giuđa, xứ này là vùng đông người có đạo Do Thái nhất. Xứ Samari là miền tạp chủng, tuy theo đạo Do Thái, nhưng đạo này bị pha trộn với tôn giáo của dân ngoại, nghĩa là mang tính lạc giáo, nên bị người Giuđa khinh thường và coi như dân ngoại. Còn xứ Galilê là miền đất của dân ngoại – vì đa số dân chúng là ngoại đạo – như được nói trong bài Tin Mừng: «Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại» (Mt 4,15). Galilê «thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali», là vùng đất bị Thiên Chúa nguyền rủa vì trong quá khứ, dân đã phạm một lầm lỗi nặng nề nào đó (x. Is 8,23b). Thế mà Đức Giêsu lại là người Nadarét thuộc xứ Galilê, Ngài sinh trưởng và xuất thân từ đó. Các tông đồ mà Ngài tuyển chọn, tất cả đều là người dân Galilê.
Đến đây, ta phải tự hỏi: tại sao Thiên Chúa không để Đức Giêsu và các tông đồ của Ngài xuất thân ở vùng đất Giuđa là vùng của đạo Do Thái, mà lại xuất thân từ vùng Galilê là vùng của dân ngoại?
Quả thật, việc làm của Thiên Chúa không mấy ai hiểu được: «Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Gio-đan, vùng đất của dân ngoại (Is 8,23b). Đúng là «Người nâng ai lên hay hạ ai xuống đều tuỳ ý Ngài» (Đn 5,19; x. Tv 147,6; Hc 33,12; Ed 17,24; Ed 21,31). Đương nhiên không phải Ngài nâng cao hay hạ thấp một cách tùy tiện theo ý ngông của Ngài, mà theo tiêu chuẩn này: «Chúa hạ bệ những ai quyền thế, kiêu căng; Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,52). Do biết khiêm nhường sám hối, vùng Caphácnaum (thuộc miền Galilê) đang được Thiên Chúa chúc phúc và nâng lên. Nhưng khi được nâng lên, dân này lại sinh ra kiêu căng và tự hào, nên Đức Giêsu mới cảnh báo: «Còn ngươi nữa, hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!» (Lc 10,15).
Cũng vậy, dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài, đó là điều thật hạnh phúc cho họ. Nhưng thay vì sống theo giới luật hay tinh thần của Ngài để xứng đáng với ân huệ đặc biệt đó, họ lại lên mặt và khinh chê dân ngoại. Vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến, Thiên Chúa đã không để cho vùng Giuđa – vùng đông người có đạo nhất – được vinh dự là nơi xuất thân của Đấng Cứu Thế. Mang danh là tuyển dân của Thiên Chúa, tuy vẫn giữ đúng những tập tục tôn giáo Ngài truyền lại qua Môsê, nhưng họ chỉ thực hiện một cách hoàn toàn hình thức, thiếu tình yêu và lòng thành bên trong, họ đã trở nên nguội lạnh và gian ác. Bằng chứng là khi Đấng Cứu Thế đến, họ đã bách hại Ngài ngay khi Ngài sinh ra, và còn tiếp tục bách hại và giết chết Ngài khi Ngài xuất hiện ở tuổi trưởng thành. Vì thế, Thiên Chúa đã hạ bệ họ: «Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen» (Tv 147,6). Thật vậy, đến năm 70, Thiên Chúa đã khiến cho Giêrusalem, kinh đô của Do Thái giáo, trở thành «không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì đã không nhận biết thời giờ họ được Thiên Chúa viếng thăm» (Lc 19,44). Và dân Do Thái đã mất nước từ đó –suốt 19 thế kỷ – cho đến khi lập quốc trở lại vào năm 1947. Lập quốc trở lại mà vẫn phải chịu đựng chiến tranh liên miên. Về mặt tôn giáo, Thiên Chúa đã lập nên mộtGiáo Hội mới mà chủ yếu là do dân ngoại gia nhập vào, còn người Do Thái thì chiếm tỷ lệ vô cùng nhỏ bé so với dân số của họ thời ấy. Sự việc đã xảy ra đúng như tinhthần dụ ngôn người thợ vườn nho sát nhân (Mt 21,33-46) và dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14) của Đức Giêsu.
2.   Bài học cho mỗi người chúng ta
Những sự kiện nêu trên đáng cho chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học. Rất có thể chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, được ưu đãi hơn rất nhiều người khác. Nhưng thay vì ta biết ơn Ngài và sống cho xứng đáng với ơn ấy, thì chúng ta lại lên mặt kiêu căng với những người kém may mắn hơn, đồng thời sống giả hình (có bề ngoài mà không có thực chất bên trong), gian ác, không đúng với tinh thần quên mình, từ bỏ mình, hoặc vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa.Chúng ta tưởng rằng quên mình hay từ bỏ mình thì sẽ bị thiệt hại, bị vong thân, và tưởng rằng vác thập giá mình thì sẽ bị đau khổ. Nên chúng ta tìm cách đề cao mình, thổi phồng «cái tôi» cá nhân hoặc tập thể của mình lên. Nhưng thật ra đó mới chính là cách hủy hoại mình hữu hiệu nhất. Và tìm cách đạt cho bằng được những địa vị, quyền bính, tiền bạc, để hưởng những vinh quang, lạc thú, thoải mái do chúng mang lại. Nhưng thật ra đó là tự chuốc đau khổ cho mình cách tệ hại nhất. Chúng ta quên rằng «Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,51-52).
3.   Bài học cho các tập thể
Thiên Chúa đối xử với những cá nhân kiêu căng thế nào, thì Ngài cũng đối xử với những tập thể ngạo mạn như vậy. Lịch sử của dân Do Thái là một bài học đích đáng về chân lý ấy. Vì thế, nhiều khi chúng ta phải tự xét: liệu Giáo Hội – dân được Thiên Chúa tuyển chọn trong Tân ước – có đi vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái – dân được Ngài tuyển chọn trong Cựu ước – không? Giáo Hội có quá tự hào vì được Thiên Chúa ưu đãi và tuyển chọn cách đặc biệt không? có coi thường các tôn giáo khác không? có sống xứng đáng với hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mình không? Người Kitô hữu ngày nay – giáo dân cũng như giáo sĩ – có rập khuôn theo tinh thần cũ của dân Do Thái xưa không?
Nếu dân Do Thái xưa mà suy gẫm lời cảnh báo của Đức Giêsu xưa: «Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham» (Mt 3,9), và sống phù hợp vn tinh thần của Ngài, thì có lẽ họ đã không đến nỗi như hiện nay. Thánh Phaolô từng cảnh báo về lòng tự hào của họ: «Bạn mang tên là người Do-thái, ỷ rằng mình có Lề Luật, tự hào vì có Thiên Chúa; được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; (…) bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và chân lý» (Rm 2,17-20). Tự hào như thế thì cũng chính đáng, nhưng nếu vì sự tự hào ấy mà lên mặt với người khác là điều không hay, nhất là khi không sống cho xứng với niềm tự hào ấy: «Bạn dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! (…) Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,21-23). Người Kitô hữu sẽ làm nhục Đức Kitô khi họ tự hào về Ngài nhưng lại sống giới răn mới của Ngài (x. Ga 13,34) không bằng người ngoại.
4.   Hãy sám hối
Đức Giêsu xuất thân và khởi đầu việc rao giảng của Ngài tại Galilê, là «miền đất của dân ngoại». Để giúp cho Galilê được «đầy dẫy vinh quang» hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia (x. Is 9,1; 8,23b), Đức Giêsu khuyên dân chúng tại đó: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần». Cho dù tội lỗi, bị Thiên Chúa nguyền rủa, nhưng nếu biết sám hối, biết sửa đổi lại cách sống theo đường lối của Ngài, thì sẽ được Ngài nâng lên, chúc phúc. Dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) chứng minh điều đó. Trái lại, khi được Ngài nâng lên mà lại trở nên kiêu căng tự hào thì sẽ lại bị Ngài hạ xuống, như Đức Giêsu đã cảnh báo dân Caphácnaum (x. Lc 10,15). Vậy, sám hối – tức khiêm nhường nhận ra sự sai trái của mình và quyết tâm sửa đổi cho đúng – là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa chúc phúc và nâng lên. Trong tinh thần sám hối ấy, thiết tưởng người Kitô hữu chúng ta – dù là cá nhân hay tập thể – cần tránh tự hào và kiêu hãnh trước người khác về những nhân đức mình có, những việc tốt đẹp mình làm được, những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban cho mình một cách ưu đãi. Đồng thời cần cố gắng sống cho xứng đáng với những ân huệ đặc biệt ấy với tâm tình biết ơn.

Thursday, January 16, 2014

Chuanhatthu2ThuongNien


Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ 2 Thường Niên
 (19/01/2014)
Tin Mừng: Ga 1,29-34
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu

Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Gio-an lại giới thiệu Ðức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian? Ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ đó thế nào?
2. Vai trò của Gio-an Tẩy Giả đối với Ðức Giê-su như thế nào? Tư cách của ông có xứng với vai trò hay sứ mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?
3. Qua tư cách và hành động của Gio-an, bạn có thể rút ra kết luận gì cho cuộc đời ngôn sứ của bạn? (nên nhớ mỗi Ki-tô hữu phải là một ngôn sứ!)

CHIA SẺ
1. Gio-an, người dọn đường cho Ðức Giê-su
Ðể chuẩn bị xa cho việc Ðức Giê-su đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Ðể chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gio-an Tẩy Giả.
Gio-an là bà con với Ðức Giê-su, vì mẹ của ông Gio-an là chị họ của Ðức Giê-su (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gio-an và Ðức Giê-su đã quen biết nhau, nhưng Gio-an không biết hoặc biết không chắc chắn Đức Giê-su là Ðấng Thiên Sai. Chỉ khi Ðức Giê-su đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: «Chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấyThần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần”» (Ga 1,33). Khi đã biết đích xác Ðức Giê-su là ai, Gio-an bắt đầu làm chứng về Ngài.
2. Những ngôn sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh (Ga 1,33) vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2.11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.
Tương tự như Ðức Giê-su và Gio-an Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14, 4). Ðiều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gio-an. Ðó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Ðó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị ném đá và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
3. Ngôn sứ phải sống cho Thiên Chúa và tha nhân,
không sống cho bản thân mình
Trong cách giới thiệu của Gio-an về Ðức Giê-su, ta thấy ông luôn luôn làm cho Ðức Giê-su nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: «Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi» (Ga 3,30). Chẳng hạn: «Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi, Tôi đây không phải là Ðấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người» (Ga 3, 28), «Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người» (Ga 1, 27). «Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi» (Mt 3, 11), «Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần» (Mc 1, 8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gio-an rút lui vào bóng tối, để Ðức Giê-su đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Ðây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính “cái tôi” của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Ðức Giê-su (Pl 2, 6-8). «Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác» (Pl 2,3-4). Một người coi “cái tôi” của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người.
Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi. nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v. v. Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Ðức Giê-su vạch mặt: «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen» (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích phình to bản ngã này, Ðức Giê-su gọi là men Pha-ri-siêu: «Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả» (Lc 12,1). Là người Ki-tô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại men rất khó tránh này.

Chuanhatthu1ThuongNien


Chia sẻ Tin Mừng
Chúa nhật thứ I Thường Niên
Lễ Đức Giêsu chịu phép Rửa
 (12/01/2014)

Tin Mừng: Mt 3,13-17
Lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu

Câu hỏi gợi ý:
1. Bản thân Ðức Giê-su hoàn toàn vô tội, thế mà Ngài lại sẵn sàng chịu rửa tội, một nghi thức chỉ dành cho kẻ có tội. Tại sao vậy? Ngài làm một chuyện phi lý hay giả dối chăng?
2. Qua việc chịu phép rửa, một cách nào đó, Ðức Giê-su đã nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, dù bản thân Ngài hoàn toàn vô tội. Ta có bao giờ hành động như Ngài chưa? nhất là khi cần chấm dứt sự giận dữ của ai đó? hoặc cần đem lại hạnh phúc cho ai đó?
3. Là cấp lãnh đạo mà ta không dám nhận trách nhiệm về phía mình khi có chuyện đáng tiếc xảy ra trong tập thể của mình, lại hoàn toàn đổ lỗi cho người khác, thì có xứng đáng là cấp lãnh đạo không?

CHIA SẺ
1. Bài học từ biến cố chịu phép rửa của Đức Giêsu
«Ngài là người hoàn toàn vô tội: Nơi Người không có tội lỗi» (1Ga 3, 5). Thế mà vì yêu thương nhân loại, Ngài đã sẵn sàng nhận hết tội lỗi của cả nhân loại về cho mình. Ðiều đó chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ và rút ra một bài học sao?
Chúng ta ai nấy đều có tội không nhiều thì ít, thế mà rất nhiều khi ta lại không muốn nhìn nhận mình là kẻ có tội. Ta tìm đủ cách để người khác nghĩ về ta tốt hơn thực trạng hay bản chất của ta. Nhiều khi ta còn giả hình để người khác lầm tưởng rằng ta rất tốt, ta vô tội. Nếu có ai nói xấu ta, thậm chí rất đúng, ta cũng tỏ ra bực bội hay thù ghét người ấy. Ta không muốn nhìn nhận thực trạng xấu xa của mình. Trong những cuộc tranh luận, nhiều khi ta thấy mình sai trái, đuối lý, nhưng ta không có can đảm nhận phần sai trái về phía mình, mà cứ cãi chầy cãi cối để khỏi phải nhận lỗi, thậm chí còn kết án ngược lại cho người khác. Như thế, ta đã tự chứng tỏ mình thiếu thành thực và không ngay thẳng.
Khi một người khác bực bội, tức giận vì một thiệt hại nào đó mà họ nghĩ là do ta gây ra, lúc đó ta thường xử sự thế nào? Nếu ta có lỗi thật sự, ta có dám nhìn nhận mình có lỗi để người kia nguôi cơn giận không? Thiết tưởng nhận lỗi mình lúc đấy là một bổn phận của đức công bằng. Nếu không nhận lỗi, ta còn làm cho sự bất công ấy nặng thêm, vì làm cho người kia tức giận hơn nữa, tức làm khổ họ, và có thể gây hại cho họ về tâm lý hoặc thể lý. Việc can đảm nhận lỗi trong những trường hợp như thế không bao giờ làm giảm giá trị con người ta, mà còn khiến người khác thêm kính phục ta. Trái lại, có lỗi mà không chịu nhận mới đáng hổ thẹn và đáng khinh bỉ.
Nếu ta hoàn toàn không có lỗi, nhưng vì người kia hiểu lầm, nên trong cơn tức giận, họ nhất quyết đổ lỗi cho ta, thì ta xử sự thế nào? Ta có thể trước hết giải tỏa cơn giận cho họ đã, chẳng hạn bằng cách tạm thời nhận lỗi về phía mình, rồi chờ khi họ bớt giận, nghĩa là có đủ sáng suốt và khách quan, thì cho họ thấy rõ ai phải ai trái. Ðó là một hành động khôn ngoan và bác ái, vì trong cơn tức giận vì bị thiệt hại quá mức, theo tâm lý thường tình, người ta có nhu cầu tâm lý là phải trút cơn giận đó lên người khác để cơn giận được thỏa mãn. Lúc đó, họ không đủ sáng suốt để nhận ra lỗi của mình, vì giận chính là tình trạng điên khùng hay mất trí trong giây lát. Những lúc đó họ chỉ biết đổ lỗi lên đầu người khác cho hả giận. Khi có người nhận lỗi, cơn giận của họ giảm đi ngay như lửa bị tạt nước vào.
Biện minh cho việc mình vô tội lúc ấy thường giống như đổ thêm dầu vào lửa, chỉ làm cơn giận của họ bùng lên mạnh mẽ hơn, không làm cho họ nhận ra lỗi của họ, và cũng chẳng giải quyết được gì. Kinh nghiệm cho tôi thấy: thường sau khi họ được thỏa mãn cơn giận, tâm trí họ sáng suốt hơn, và họ dễ dàng nhận ra lỗi của họ. Thói đời là ta càng đổ lỗi cho người khác, thì họ càng có khuynh hướng chữa lỗi và tìm cách đổ lỗi lại cho ta. Còn nếu ta khiêm nhượng nhận lỗi về phía mình, thì người kia tự nhiên có khuynh hướng tự xét mình, nhờ đó dễ dàng nhận ra sai trái của họ. Và sau đó họ thường nể phục tư cách và lối xử sự của ta.
Trong mọi trường hợp, hãy bắt chước Ðức Giêsu, dù hoàn toàn vô tội, vẫn sẵn sàng mặc lấy thân phận kẻ tội lỗi và chịu đối xử như kẻ có tội.
2. Dám nhận trách nhiệm về phía mình
là một dấu chứng của người lãnh đạo trưởng thành
Trong các tập thể - như gia đình, xã hội, Giáo Hội - ta thường thấy những chuyện như: khi có chuyện thành công hay tốt đẹp xảy ra, người lãnh đạo thường nhận ra công của mình trong đó, và sẵn sàng đón nhận những lời tán tụng, tri ân, và những lợi lộc từ sự thành công ấy. Nhưng khi thất bại hoặc có sự cố đáng tiếc xảy ra, cấp lãnh đạo thường tìm cách đổ lỗi hoặc qui trách nhiệm cho cấp dưới, hoặc cho hoàn cảnh, còn mình thì lấy nước rửa tay kiểu Phi-la-tô: Ta vô can trong vụ này (Mt 27,24). Và sau đó thì cấp dưới lãnh đủ những thiệt hại do sự cố đáng tiếc ấy: bị la rầy, bị phạt, mất uy tín, phải bồi thường, tù tội, v. v. Còn người lãnh đạo thì hoàn toàn vô sự, mặc dù trong thực tế sự đáng tiếc ấy chủ yếu hoặc phần nào là do sự lãnh đạo thiếu sáng suốt của mình.
Phải chăng Kinh Cáo Mình với câu lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng chỉ được đọc duy nhất ở trong thánh lễ và những buổi đọc kinh, chứ rất ít khi được đọc (=thể hiện) trong đời sống thường nhật. Ðạo của chúng ta phải chăng chỉ được thực hành ở trong chứ không phải ở ngoài nhà thờ, đang khi 99% thì giờ của chúng ta lại là ở ngoài nhà thờ! Theo tinh thần Kinh Cáo Mình, ta cần nhạy bén trong việc nhận ra phần lỗi - trực tiếp hay gián tiếp - của mình trong mọi điều xấu xảy ra nơi gia đình, đoàn thể, ngoài xã hội hay trong Giáo Hội của ta. Có những việc hết sức đáng tiếc xảy ra mà ta tưởng chừng mình vô can, nhưng xét cho kỹ rất có thể ta có lỗi vì đã tỏ ra thờ ơ, không can thiệp theo lương tâm khiến cho những việc ấy xảy ra.
Không dám nhận trách nhiệm về phía mình dù là cấp lãnh đạo hay cấp dưới đều là dấu chứng của sự thiếu trưởng thành về mặt tâm linh và xã hội hay Giáo Hội. Thiết tưởng chúng ta nên suy niệm bài Tin Mừng hôm nay để chỉnh sửa lại cách hành xử sai trái ấy.
Ðức Giêsu vô tội hoàn toàn, nhưng Ngài sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm của cả nhân loại về phía mình. Ngài đã hành xử như một kẻ có tội cần phải sám hối, phải xin lỗi trước mặt Thiên Chúa bằng nghi thức rửa tội. Không chỉ như thế, Ngài còn sẵn sàng đền bù với giá cao nhất là mạng sống của Ngài những tội lỗi mà Ngài đã tự qui về cho mình thay cho cả nhân loại. Hành động của Ngài thật hết sức anh hùng và dũng cảm.
Ðức Ki-tô thì hành động như thế, chẳng lẽ các Ki-tô hữu, những kẻ theo Ðức Ki-tô, những môn đệ của Ngài, những Ki-tô khác lại hành động khác với Ðức Ki-tô sao? Nếu không giống Ngài 100% thì ít ra cũng phải được 50%, hay ít nhất cũng phải 40 hay 30%! Nếu không thì sao ta lại dám tự nhận mình theo Ngài? là môn đệ Ngài? Ta theo Ngài ở chỗ nào? là môn đệ Ngài ở chỗ nào? Cần xét lại xem: coi chừng kẻo ta chính là môn đệ của Phi-la-tô mà lại cứ lầm tưởng và tự xưng là môn đệ của Ngài!